Bệnh lậu là gì?
Bệnh lậu là một bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI) do Neisseria gonorrhoeae vi khuẩn. Bệnh lây truyền từ người này sang người khác khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng không được bảo vệ. Nó có thể ảnh hưởng đến dương vật, âm đạo hoặc cổ họng, trong số các khu vực khác của cơ thể.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), 555.608 trường hợp mới đã được báo cáo ở Hoa Kỳ trong năm 2017.
Bệnh lậu có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng khi không được điều trị, vì vậy điều quan trọng là phải điều trị càng sớm càng tốt. Hầu hết các trường hợp bệnh lậu có thể được chữa khỏi bằng các loại thuốc chính xác và điều trị kịp thời.
Điều trị bệnh lậu như thế nào?
Thuốc kháng sinh có thể làm giảm các triệu chứng và có thể chữa khỏi bệnh nhiễm trùng lậu, miễn là chúng được dùng theo đúng chỉ định. Việc điều trị sẽ bắt đầu ngay khi có chẩn đoán.
Bệnh lậu sinh dục
Đối với phụ nữ không mang thai bị nhiễm trùng lậu ảnh hưởng đến cổ tử cung, niệu đạo hoặc trực tràng, CDC khuyến cáo sử dụng đồng thời các loại thuốc này:
- ceftriaxone, 250 miligam (mg), tiêm vào cơ như một liều duy nhất
- azithromycin (Zithromax), 1 g, uống một liều duy nhất
Nếu không có ceftriaxone, phương pháp điều trị thay thế được khuyến nghị là:
- cefixime (Suprax), 400 mg, uống một liều duy nhất
- azithromycin (Zithromax), 1 g, uống một liều duy nhất
Ceftriaxone và cefixime đều thuộc nhóm kháng sinh được gọi là cephalosporin.
Bệnh lậu ở miệng
Nhiễm trùng lậu ảnh hưởng đến cổ họng khó điều trị hơn so với nhiễm trùng ảnh hưởng đến vùng sinh dục. Mặc dù các loại thuốc tương tự được khuyến cáo để điều trị nhiễm trùng lậu ở miệng, nhưng chúng có xu hướng kém hiệu quả hơn.
Bác sĩ có thể tiến hành cấy dịch cổ họng từ 5 đến 7 ngày sau khi bắt đầu điều trị. Điều này có thể giúp họ xác định xem nhiễm trùng đã biến mất chưa. Điều trị kéo dài là cần thiết nếu nhiễm trùng không biến mất trong vài ngày.
Bạn có biết không? Thuốc kháng sinh fluoroquinolon, chẳng hạn như ciprofloxacin (Cipro) và ofloxacin (Floxin), không còn được khuyến cáo để điều trị bệnh lậu. Spectinomycin, một loại kháng sinh khác đôi khi được khuyên dùng để điều trị bệnh lậu, không còn được cung cấp ở Hoa Kỳ.
Bệnh lậu lây lan điều trị như thế nào?
Bệnh lậu lan tỏa là một biến chứng hiếm gặp xảy ra khi N. gonorrhoeae lây nhiễm vào máu. Những người bị bệnh lậu lan tỏa cần phải nhập viện trong giai đoạn đầu của quá trình điều trị. Họ cũng nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa về bệnh truyền nhiễm.
Viêm khớp do lậu cầu
Đối với những người bị ảnh hưởng bởi viêm khớp do lậu cầu, CDC khuyến nghị điều trị ban đầu:
- ceftriaxone, 1 g, tiêm vào cơ hoặc tiêm tĩnh mạch mỗi 24 giờ
- azithromycin (Zithromax), 1 g, uống một liều duy nhất
Nếu một người không thể sử dụng ceftriaxone, có thể do dị ứng thuốc, họ có thể được cho:
- cefotaxime, 1 g, tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần
- ceftizoxime, 1 g, tiêm tĩnh mạch 8 giờ một lần
Giai đoạn đầu tiên tiếp tục cho đến khi tình trạng có dấu hiệu cải thiện trong ít nhất 24 đến 48 giờ. Trong giai đoạn hai, nếu tình trạng bệnh có dấu hiệu cải thiện, người mắc bệnh lậu sẽ được chuyển sang dùng thuốc kháng sinh dạng uống. Tổng thời gian điều trị nên kéo dài ít nhất 1 tuần.
Viêm màng não và viêm màng trong tim do lậu cầu
Đối với những người bị ảnh hưởng bởi viêm màng não do lậu cầu và viêm nội tâm mạc do lậu cầu, CDC khuyến nghị điều trị ban đầu:
- ceftriaxone, 1-2 g tiêm tĩnh mạch mỗi 12-24 giờ
- azithromycin (Zithromax), 1 g, uống một liều duy nhất
Điều trị bằng đường tiêm, còn được gọi là nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, cũng được khuyến khích. Tổng thời gian điều trị viêm màng não nên kéo dài ít nhất 10 ngày, trong khi tổng thời gian điều trị viêm màng trong tim nên kéo dài ít nhất 4 tuần.
Điều trị bệnh lậu cho phụ nữ mang thai có khác không?
Thuốc dùng cho phụ nữ mang thai mắc bệnh lậu về cơ bản cũng giống như thuốc dùng cho phụ nữ không mang thai.
Điều trị là cần thiết để ngăn ngừa bệnh lây truyền hoặc các biến chứng cho em bé.
Bệnh lậu ở trẻ sơ sinh thường có biểu hiện như viêm kết mạc, hoặc đau mắt đỏ. Một số tiểu bang yêu cầu tất cả trẻ sơ sinh phải được nhỏ mắt kháng sinh, chẳng hạn như erythromycin, như một biện pháp phòng ngừa bệnh.
Phụ nữ mang thai được chẩn đoán mắc bệnh lậu cũng nên được xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
Các tác dụng phụ có thể xảy ra khi điều trị bệnh lậu là gì?
Các tác dụng phụ là một mối quan tâm khi nói đến liệu pháp kháng sinh. Tất cả các loại thuốc kháng sinh được khuyến nghị có thể gây ra những thay đổi trong vi khuẩn thường trú ngụ trong ruột hoặc âm đạo.
Điều này có thể khiến phụ nữ dễ bị tiêu chảy hoặc nhiễm trùng nấm âm đạo. Rối loạn tiêu hóa là một tác dụng phụ phổ biến khác của thuốc kháng sinh.
Các tác dụng phụ khác có thể xảy ra khác nhau tùy thuộc vào loại kháng sinh đang được sử dụng.
Cephalosporin có thể gây ra các triệu chứng như:
- đau bụng
- phát ban
- phản ứng dị ứng
- tổn thương thận
Azithromycin có thể gây ra các triệu chứng như:
- đau bụng
- buồn nôn
- bệnh tiêu chảy
- nôn mửa
Làm thế nào để có thể ngăn ngừa bệnh lậu?
Thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhất định sẽ giúp ngăn ngừa sự lây lan của bệnh lậu. Ngoài ra còn có các biện pháp phòng ngừa có thể giữ cho nhiễm trùng không xảy ra ngay từ đầu.
Những cách đáng tin cậy nhất để ngăn ngừa bệnh lậu là:
- kiêng quan hệ tình dục
- luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, miệng hoặc hậu môn
- có bạn tình chung thủy một vợ một chồng không bị nhiễm trùng
Vì bệnh lậu thường không gây ra các triệu chứng nên điều quan trọng đối với những người đang hoạt động tình dục là phải đi xét nghiệm thường xuyên. Điều này đặc biệt quan trọng nếu bạn tình của họ đã được chẩn đoán mắc bệnh lậu.
Cân nhắc trao đổi với bác sĩ về tần suất làm xét nghiệm bệnh lậu và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.
Ngăn ngừa sự lây lan của bệnh lậu
Để giảm thiểu nguy cơ lây truyền bệnh lậu cho người khác, tránh quan hệ tình dục ít nhất bảy ngày sau khi điều trị xong. Đồng thời khuyến khích bất kỳ đối tác tình dục nào trong vòng 60 ngày qua đến gặp bác sĩ của riêng họ để đánh giá.
Nếu một người được chẩn đoán mắc bệnh lậu đang trong một mối quan hệ lãng mạn, bạn tình của họ cũng nên đi xét nghiệm bệnh lậu. Vẫn có thể mắc bệnh lậu khi đang điều trị bệnh lậu.
Nếu cả hai bạn tình đều được chẩn đoán mắc bệnh lậu, việc điều trị của họ sẽ giống nhau. Cả hai sẽ cần kiêng quan hệ tình dục cho đến khi họ hoàn thành điều trị và khỏi bệnh.
Bài học rút ra là gì?
Trong những năm gần đây, N. lậu vi khuẩn đã trở nên đề kháng với một số loại thuốc được sử dụng để điều trị bệnh lậu, bao gồm cả penicillin và tetracyclines. Điều này có nghĩa là những loại thuốc này ít hiệu quả hơn trong việc điều trị và chữa khỏi nhiễm trùng.
Do đó, gần như tất cả những người được điều trị ở Hoa Kỳ sẽ nhận được sự kết hợp của hai loại kháng sinh giống nhau: ceftriaxone và azithromycin.
Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Hóa trị liệu kháng khuẩn tin rằng vi khuẩn này cuối cùng có thể tạo ra khả năng kháng lại thậm chí nhiều loại thuốc được sử dụng để điều trị bệnh lậu.
Nếu không được điều trị - hoặc điều trị không đúng cách - bệnh lậu có thể dẫn đến bệnh viêm vùng chậu (PID) ở phụ nữ hoặc sẹo niệu đạo ở nam giới.
Những người gần đây đã được chẩn đoán mắc bệnh lậu cũng nên được xét nghiệm các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, bao gồm:
- Bịnh giang mai
- chlamydia
- mụn rộp
- HPV (vi rút u nhú ở người)
- HIV