Thuốc sinh học, hoặc thuốc sinh học, là các loại thuốc được làm từ các cơ thể sống. Đây là lý do tại sao chúng được gọi là sinh học - “sinh học” có nghĩa là “sự sống”.
Chúng có thể được tạo ra từ tế bào người hoặc động vật, vi khuẩn và các vi sinh vật khác. Ví dụ, vắc xin là một loại sinh học.
Sinh học có các protein nhắm mục tiêu đến các tế bào cụ thể bên trong cơ thể bạn và ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch bằng cách can thiệp vào quá trình viêm. Vì lý do này, sinh học được sử dụng để điều trị các tình trạng da tự miễn dịch như bệnh vẩy nến.
Năm 2013, ước tính có khoảng 7,4 triệu người ở Hoa Kỳ mắc bệnh vẩy nến.
Có một số lựa chọn điều trị cho bệnh vẩy nến, bao gồm phương pháp điều trị tại chỗ (da), thuốc theo toa và quang trị liệu. Nếu bạn bị bệnh vẩy nến trung bình đến nặng và phương pháp điều trị hiện tại của bạn không hiệu quả, có thể đã đến lúc nghĩ đến việc thử dùng thuốc sinh học.
Sinh học là gì?
Thuốc sinh học là các loại thuốc đặc hiệu cho mục tiêu hoạt động bằng cách ngăn chặn một số protein (cytokine) gây viêm. Điều này có nghĩa là chúng trú ngụ trên các bộ phận của hệ thống miễn dịch gây ra tình trạng viêm ở vùng da bị bệnh vẩy nến.
Mặc dù thuốc sinh học cho bệnh vẩy nến có thể hiệu quả, nhưng các phản ứng không đúng lúc có thể dẫn đến thay đổi phản ứng của bạn với nhiễm trùng và tính nhạy cảm của bạn với các khối u ác tính.
Làm thế nào để sinh học hoạt động?
Sinh học đôi khi được gọi là chất điều chỉnh phản ứng sinh học vì chúng thay đổi cách một số hệ thống trong cơ thể hoạt động hoặc phản ứng.
Sinh học được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm (như tiêm vắc-xin) hoặc qua đường truyền tĩnh mạch (IV) vào mạch máu của bạn.
Không thể uống (nuốt) chúng qua đường miệng vì chúng không đủ mạnh để tồn tại trong axit dạ dày. Ngoài ra còn có các rào cản đối với sự hấp thụ sinh học trong đường tiêu hóa.
Thuốc sinh học cho bệnh vẩy nến hoạt động bằng cách ngăn chặn hệ thống miễn dịch tạo ra các cytokine cụ thể - các protein gây viêm - gây ra tình trạng da này. Thuốc sinh học bệnh vẩy nến nhắm mục tiêu vào các cytokine được tạo ra bởi hai con đường chính của hệ thống miễn dịch: Th1 và Th17.
Con đường Th1
Một số loại thuốc sinh học nhắm vào các cytokine được sản xuất bởi các tế bào miễn dịch được gọi là tế bào T, có liên quan đến bệnh vẩy nến. Tế bào Th1 làm tăng mức độ các cytokine gây viêm gây ra bệnh vẩy nến, chẳng hạn như:
- interferon-gamma (IFN-γ)
- yếu tố hoại tử khối u-alpha (TNF-α)
- interleukin-12 (IL-12).
Con đường Th17
Một số sinh học nhắm mục tiêu vào các cytokine do tế bào Th17 sản xuất, cũng có thể gây ra bệnh vẩy nến. Các tế bào này kích thích tiết ra các cytokine IL-17. Thuốc sinh học có thể ngăn chặn các tế bào viêm này và giảm sự khởi phát của bệnh viêm khớp vảy nến. (Loại viêm khớp này có thể phát triển ở những người bị bệnh vẩy nến.)
Hiện nay có những loại sinh học nào?
Hiện có 11 loại sinh học cho bệnh vẩy nến:
- secukinumab (Cosentyx)
- etanercept (Enbrel)
- adalimumab (Humira)
- infliximab (Remicade)
- brodalumab (Siliq)
- ustekinumab (Stelara)
- ixekizumab (Taltz)
- guselkumab (Tremfya)
- certolizumab (Cimzia)
- tildrakizumab (Ilumya)
- risankizumab (Skyrizi)
Tổ chức Bệnh vẩy nến Quốc gia cung cấp thêm thông tin chi tiết và cập nhật về các loại sinh học này.
Những sinh học này nhắm mục tiêu đến các cytokine khác nhau và các chất trung gian gây viêm, vì vậy hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về loại sinh học phù hợp với bạn. Nghiên cứu về phát triển các sinh học khác cho bệnh vẩy nến đang được tiến hành.
Có thể kết hợp sinh học với các phương pháp điều trị khác không?
Việc sử dụng một loại thuốc hoặc một phương pháp trị liệu duy nhất có thể không hiệu quả đối với tất cả mọi người bị bệnh vẩy nến. Nếu các loại thuốc đơn lẻ không hiệu quả với bạn hoặc không hoạt động tốt như trước đây, có thể đã đến lúc cân nhắc kết hợp thuốc sinh học với các phương pháp điều trị bệnh vẩy nến khác.
Có ba lợi ích chính của việc sử dụng phương pháp kết hợp:
- Nó có thể làm giảm khả năng đạt đến mức độc hại chỉ với một loại thuốc.
- Các loại thuốc riêng lẻ có thể được kê đơn với liều lượng thấp hơn.
- Phương pháp kết hợp có thể thành công hơn một phương pháp điều trị đơn lẻ.
Nghiên cứu từ năm 2014 cho thấy rằng những người dùng sinh học, hoặc sinh phẩm cùng với một hình thức điều trị khác, thường hài lòng hơn so với những người chỉ dùng liệu pháp tại chỗ hoặc acitrecin (Soriatane).
Methotrexate so với sinh học
Methotrexate là một loại thuốc được gọi là thuốc chống chuyển hóa hoặc thuốc điều chỉnh bệnh (DMARD). Nó thường được sử dụng để điều trị ung thư bằng cách làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư.
Methotrexate cũng được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến và các tình trạng tự miễn dịch khác như viêm khớp dạng thấp vì nó làm chậm toàn bộ hệ thống miễn dịch.
Trong khi đó, sinh học điều trị bệnh vẩy nến và các tình trạng tự miễn dịch khác bằng cách làm chậm hoặc ngăn chặn các bộ phận của hệ thống miễn dịch. Họ làm điều này bằng cách nhắm mục tiêu các thành phần của quá trình viêm.
Một nghiên cứu đã so sánh việc điều trị bằng methotrexate và một loại thuốc sinh học cho bệnh viêm khớp dạng thấp. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người được điều trị bằng sinh học có ít triệu chứng bệnh hơn những người được điều trị bằng methotrexate.
Cần nghiên cứu thêm để tìm hiểu xem liệu sinh học cho bệnh vẩy nến có tác dụng tương tự hay không.
Điều trị các loại bệnh vẩy nến
Có nhiều loại bệnh vẩy nến khác nhau. Bạn có thể mắc một loại hoặc nhiều loại bệnh vẩy nến. Các loại sinh học khác nhau có thể được sử dụng để điều trị các loại khác nhau.
Ví dụ, bệnh vẩy nến da đầu có thể được điều trị tốt nhất bằng các loại sinh học sau:
- ustekinumab (Stelara)
- infliximab (Remicade)
- adalimumab (Humira)
- etanercept (Enbrel)
Bệnh vẩy nến ruột gây ra các nốt đỏ nhỏ trên da. Nó có thể bắt đầu từ thời thơ ấu. Nghiên cứu y học cho thấy rằng điều trị bằng ustekinumab sinh học (Stelara) cho kết quả tốt.
Chi phí sinh học
Điều trị bằng thuốc sinh học có thể đắt hơn các loại phương pháp điều trị bệnh vẩy nến khác. Lý do lớn nhất khiến thuốc sinh học đắt hơn là do chi phí liên quan đến việc nghiên cứu và phát triển các loại thuốc này.
Một lý do khác khiến chi phí điều trị bệnh vẩy nến bằng sinh học cao hơn là do chúng được tiêm thuốc. Mặc dù bạn có thể tự quản lý một số loại thuốc trong danh mục này, nhưng những loại thuốc khác có thể yêu cầu đến văn phòng bác sĩ hoặc bệnh viện.
Một lý do khác là sinh học là những loại thuốc mới hơn và chúng chưa có nhãn hiệu cạnh tranh trên thị trường để giảm giá.
Nếu không có bảo hiểm y tế, việc điều trị bằng hầu hết các loại sinh học thường có giá từ 10.000 đô la đến 25.000 đô la. Secukinumab (Cosentyx) là loại sinh học đắt nhất, vào năm 2018 có chi phí hàng năm là 60.906 đô la. Trong khi đó, điều trị bằng quang trị liệu cho bệnh vẩy nến có chi phí tự trả khoảng 1.600 đô la mỗi năm vào năm 2018.
Nếu bảo hiểm y tế của bạn chi trả điều trị bằng thuốc sinh học, bạn có thể chỉ phải trả khoản khấu trừ hoặc một phần trăm chi phí thuốc. Liên hệ với nhà cung cấp bảo hiểm của bạn để tìm hiểu phạm vi bảo hiểm của bạn.
Lấy đi
Nếu bạn cảm thấy như cách điều trị bệnh vẩy nến hiện tại của bạn không hiệu quả, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về sinh học. Sử dụng sinh học, hoặc kết hợp sinh học với thuốc truyền thống có thể là câu trả lời cho bạn.