Vi khuẩn gram dương là vi khuẩn có thành tế bào dày. Trong một thử nghiệm nhuộm Gram, những sinh vật này cho kết quả dương tính. Thử nghiệm, bao gồm một loại thuốc nhuộm hóa học, nhuộm thành màu tím của thành tế bào của vi khuẩn.
Mặt khác, vi khuẩn gram âm không giữ thuốc nhuộm. Thay vào đó chúng nhuộm màu hồng.
Mặc dù cả hai nhóm vi khuẩn đều có thể gây bệnh, nhưng chúng đòi hỏi các phương pháp điều trị khác nhau. Nếu bạn bị nhiễm trùng do vi khuẩn, việc nhuộm Gram sẽ xác định loại thuốc bạn cần.
Đọc tiếp để tìm hiểu về vi khuẩn gram dương và các bệnh liên quan của chúng, cùng với các phương pháp điều trị điển hình.
Đặc điểm của vi khuẩn gram dương
Đặc điểm nổi bật của vi khuẩn gram dương là cấu trúc của chúng. Nói chung, chúng có các đặc điểm sau:
- Không có màng ngoài. Vi khuẩn gram dương không có màng ngoài, nhưng vi khuẩn gram âm thì có.
- Thành tế bào phức tạp. Thành tế bào, bao quanh màng tế bào chất, bao gồm peptidoglycan, polysaccharid, axit teichoic và protein. Nó có thể dễ dàng hấp thụ vật chất lạ.
- Lớp peptidoglycan dày. Ở vi khuẩn gram dương, peptidoglycan dày từ 40 đến 80 lớp.
- Một số phần phụ bề mặt. Vi khuẩn gram dương có thể có trùng roi, giúp chúng di chuyển. Chúng hiếm khi có cấu trúc giống như tóc được gọi là pili.
Gram dương và gram âm
Vi khuẩn gram dương và gram âm có cấu trúc khác nhau. Thông thường, các sinh vật gram âm có các đặc điểm sau:
- màng lipid bên ngoài
- lớp peptidoglycan mỏng (2 đến 3 nanomet)
- thường không có axit teichoic
- có thể có roi hoặc pili
Sự khác biệt chính là màng lipid bên ngoài. Khó xâm nhập, giúp vi khuẩn gram âm được bảo vệ thêm. Vi khuẩn gram dương không có tính năng này.
Do sự khác biệt này, vi khuẩn gram âm khó bị tiêu diệt hơn. Điều này có nghĩa là vi khuẩn gram dương và gram âm cần các phương pháp điều trị khác nhau.
Mặc dù vi khuẩn gram âm khó bị tiêu diệt hơn nhưng vi khuẩn gram dương vẫn có thể gây ra vấn đề. Nhiều loài gây bệnh và cần dùng kháng sinh đặc hiệu.
Thử nghiệm nhuộm Gram
Thử nghiệm nhuộm Gram là một phương pháp để phân loại vi khuẩn dựa trên thành tế bào của chúng. Nó cho phép các nhà khoa học xác định xem một sinh vật là gram dương hay gram âm. Thử nghiệm sử dụng kính hiển vi được tạo ra bởi Hans Christian Gram vào năm 1884.
Trong quá trình này, thuốc nhuộm màu tím pha lê được áp dụng cho một mẫu vi khuẩn. Thuốc nhuộm hóa học này có thể làm ố các lớp peptidoglycan dày.
Dưới kính hiển vi, vi khuẩn gram dương có màu xanh tím vì màng peptidoglycan dày của chúng có thể giữ thuốc nhuộm. Vi khuẩn được gọi là gram dương do kết quả dương tính.
Vi khuẩn gram âm nhuộm màu đỏ hồng. Lớp peptidoglycan của chúng mỏng hơn, vì vậy nó không giữ được màu xanh lam. Kết quả xét nghiệm là âm tính.
Trong môi trường y tế, bác sĩ có thể gửi mẫu máu, nước tiểu hoặc mô của bạn đến phòng thí nghiệm để xét nghiệm nhuộm Gram. Điều này có thể giúp họ chẩn đoán nhiễm trùng do vi khuẩn.
Các loại vi khuẩn gram dương
Tùy thuộc vào các đặc điểm khác nhau, vi khuẩn gram dương được phân loại thêm thành các nhóm sau:
Cầu khuẩn gram dương
Cầu khuẩn gram dương có hình tròn hoặc hình bầu dục. Thuật ngữ "cầu khuẩn", có nghĩa là hình cầu, chỉ ra vi khuẩn nói chung là hình tròn.
Các loại sau đây là cầu khuẩn gram dương:
Staphylococcus
Staphylococcus mọc thành từng chùm giống quả nho. Thông thường, chúng tồn tại trên da và màng nhầy của chúng ta mà không gây ra vấn đề gì. Nhưng nếu tụ cầu xâm nhập vào cơ thể, chúng có thể gây nhiễm trùng nặng.
Liên cầu
Liên cầu vi khuẩn phát triển thành chuỗi. Điều này xảy ra bởi vì các tế bào không hoàn toàn tách biệt sau khi chúng phân chia.
Giống như tụ cầu, liên cầu thường tồn tại trong cơ thể. Chúng thường được tìm thấy ở da, miệng, đường ruột và đường sinh dục.
Streptococci được chia thành các loại sau:
- S. pyogenes (Nhóm A)
- S. agalactiae (Nhóm B)
- Enterococci (Nhóm D)
- S. viridans
- S. pneumoniae
Trực khuẩn gram dương
Khi vi khuẩn gram dương có hình dạng giống hình que, chúng được gọi là trực khuẩn. Hầu hết các vi khuẩn này thường được tìm thấy trên da, nhưng một số có thể gây ra các tình trạng bệnh lý nghiêm trọng.
Trực khuẩn gram dương được phân loại sâu hơn dựa trên khả năng tạo bào tử của chúng. Điêu nay bao gôm:
Hình thành bào tử
Bacillus và Clostridia vi khuẩn có thể hình thành bào tử, giúp vi khuẩn tồn tại trong điều kiện khắc nghiệt như nhiệt độ cao.
Các trực khuẩn này được chia nhỏ dựa trên nhu cầu oxy của chúng. Bacillus vi khuẩn cần oxy để tồn tại (hiếu khí), trong khi Clostridia vi khuẩn không (kỵ khí).
Không hình thành bào tử
Listeria và Corynebacterium các loài không tạo bào tử. Listeria vi khuẩn kỵ khí, trong khi Corynebacterium đang hiếu khí.
Vi khuẩn gram dương gây bệnh
Nếu một vi khuẩn gây bệnh, có nghĩa là nó gây bệnh cho người. Nhiều vi khuẩn gram dương là mầm bệnh.
Trong khi có hơn 100 vi khuẩn gram dương gây bệnh, các loài đáng chú ý nhất bao gồm:
Staphylococcus
Staphylococci thường gây ra các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn.
Hầu hết các trường hợp là do các loài sau đây gây ra. Các tụ cầu gây bệnh khác ít gặp hơn và hiếm khi dẫn đến bệnh.
Staphylococcus aureus
S. aureus là vi khuẩn tụ cầu gây bệnh nhiều nhất. Nó là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh nhiễm trùng do tụ cầu, bao gồm:
- nhiễm trùng da, như viêm mô tế bào và viêm nang lông
- viêm khớp nhiễm trùng
- áp xe
- viêm màng trong tim
- viêm phổi do vi khuẩn
- ngộ độc thực phẩm
- hội chứng sốc độc
- hội chứng da bỏng
- MRSA
Staphylococcus epidermidis
Thường thì S. biểu bì gây nhiễm trùng ở những người có hệ thống miễn dịch suy yếu hoặc những người đang nằm trong bệnh viện. Điều đó gây ra:
- nhiễm trùng các thiết bị y tế như ống thông tiểu
- bacteremia
- viêm trung thất
- nhiễm trùng vết mổ
- viêm giác mạc mắt
- viêm nội nhãn (nhiễm trùng mắt trong)
Staphylococcus saprophyticus
S. saprophyticus, thường được tìm thấy ở đường sinh dục và đáy chậu. Điều đó gây ra:
- nhiễm trùng đường tiết niệu không biến chứng (phổ biến nhất)
- viêm niệu đạo
- viêm tuyến tiền liệt
- viêm bể thận cấp tính
- viêm mào tinh hoàn
Liên cầu
Vi khuẩn Streptococci cũng là loại vi khuẩn gây bệnh phổ biến. Các sinh vật sau đây là phổ biến nhất. Nói chung, các nhóm liên cầu khuẩn khác có thể gây ra các bệnh do thực phẩm gây ra với chứng viêm họng.
Phế cầu khuẩn
Vi khuẩn S. pneumoniae là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh viêm phổi mắc phải ở cộng đồng. Nó cũng chịu trách nhiệm về:
- mắt hồng
- viêm xoang
- viêm màng não
Streptococcus pyogenes
S. pyogenes là một liên cầu khuẩn nhóm A. Nó có thể gây ra:
- viêm họng hạt
- viêm mô tế bào
- viêm họng hạt
- bệnh chốc lở
- ban đỏ
- thấp khớp
- viêm cân hoại tử
- viêm cầu thận
S. agalactiae
S. agalactiae thường gây nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh. Điêu nay bao gôm:
- nhiễm trùng huyết
- viêm phổi
- viêm màng não
- pyarthrosis
Enterococcus
Enterococci chủ yếu được tìm thấy ở ruột kết. Chúng gây nhiễm trùng đường mật và đường tiết niệu.
Bacillus
Là vi khuẩn tạo bào tử, trực khuẩn tạo bào tử thải độc tố. Hầu hết các loại trực khuẩn không gây bệnh cho người, nhưng hai loại sau đây có thể gây ra các tình trạng y tế nghiêm trọng.
Bacillus anthracis
B. bệnh than bào tử sản sinh ra độc tố bệnh than, gây bệnh nghiêm trọng. Con người có thể mắc bệnh than qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc với động vật bị nhiễm bệnh.
Tùy thuộc vào cách lây lan của bệnh than, bệnh than có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau. Chúng có thể bao gồm:
- vết sưng ngứa biến thành vết loét với trung tâm màu đen
- buồn nôn
- nôn mửa
- đau bụng
- ho ra máu
- sốt cao
Bacillus cereus
B. cereus là một loại vi khuẩn hình thành bào tử được tìm thấy trong đất và một số loại thực phẩm. Nó liên quan nhiều nhất đến bệnh tật do ăn cơm chưa nấu chín hoặc hâm nóng. B. cereus nguyên nhân:
- bệnh tiêu chảy
- buồn nôn
- nhiễm trùng vết thương
- nhiễm trùng đường hô hấp
- viêm nội nhãn
Clostridium
Khoảng 30 Clostridia loài gây bệnh cho người. Giống như trực khuẩn, những vi khuẩn này tạo thành độc tố dẫn đến các tình trạng nghiêm trọng.
Clostridia thường liên quan đến các bệnh do thực phẩm, nhưng các vi khuẩn đáng lo ngại nhất bao gồm:
Clostridium botulinum
Các bào tử của C. botulinum tạo ra độc tố botulinum, loại độc tố nguy hiểm nhất đối với con người. Nó dẫn đến ngộ độc thịt, bao gồm:
- ngộ độc thực phẩm (phổ biến nhất)
- chứng ngộ độc thịt ở trẻ sơ sinh
- vết thương ngộ độc
- ngộ độc đường hô hấp
Clostridium perfringens
C. perfringens thường gắn liền với sản xuất và chế biến thịt. Nếu một người ăn thịt bị nhiễm độc, họ có thể bị ngộ độc thực phẩm. Các triệu chứng bao gồm tiêu chảy và đau quặn bụng kéo dài dưới 24 giờ.
Clostridium difficile
C. difficile, còn được gọi là C. khác biệt, thường ảnh hưởng đến những người lớn tuổi trong bệnh viện. Nó thường xảy ra sau khi dùng thuốc kháng sinh. C. difficile nguyên nhân:
- viêm ruột kết
- đau bụng
- tiêu chảy nặng
Clostridium tetani
C. tetani bào tử tạo ra độc tố uốn ván, một chất gây độc cho thần kinh. Bào tử có thể được tìm thấy trong đất, tro và trên các dụng cụ gỉ sét.
Nếu chất độc gây ra nhiễm trùng, nó được gọi là bệnh uốn ván. Đây là một trường hợp cấp cứu y tế nghiêm trọng.
Listeria monocytogenes
Gây bệnh duy nhất Listeria vi khuẩn là L. monocytogenes. Ở những người khỏe mạnh, nó thường gây ra các triệu chứng nhẹ của bệnh do thực phẩm. Nhưng ở những người có hệ thống miễn dịch suy yếu, vi khuẩn có thể gây ra các tình trạng đe dọa tính mạng như:
- viêm màng não
- nhiễm trùng huyết
- bệnh nghe
Corynebacterium diphtheriae
Có khoảng 30 Corynebacterium vi khuẩn liên quan đến bệnh tật ở người. Tuy nhiên, những sinh vật này hiếm khi gây bệnh và thường ảnh hưởng đến những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương.
C. bạch hầu là sinh vật gây bệnh chính trong nhóm này. Nó chịu trách nhiệm về:
- bạch hầu
- viêm họng hạt
- nhiễm trùng đường hô hấp
- viêm khớp nhiễm trùng
- nhiễm trùng da
- viêm tủy xương
- viêm màng trong tim
Điều trị nhiễm trùng gram dương
Khi điều trị bệnh do vi khuẩn gram dương gây ra, lựa chọn tốt nhất phụ thuộc vào:
- loại vi khuẩn
- kháng kháng sinh
- liệu vi khuẩn có hình thành độc tố không
Các phương pháp điều trị phổ biến bao gồm:
Penicillin
Penicillin là một loại kháng sinh phổ biến được sử dụng cho nhiều loại bệnh nhiễm trùng. Nó hoạt động bằng cách can thiệp vào lớp peptidoglycan của vi khuẩn, lớp này giết chết sinh vật.
Thuốc kháng sinh chủ yếu được sử dụng cho Liên cầu nhiễm trùng, bao gồm:
- viêm họng hạt
- viêm xoang
- nhiễm trùng đường tiết niệu
- viêm mô tế bào
Glycopeptides
Thuốc kháng sinh glycopeptide thường được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng do vi khuẩn kháng thuốc. Giống như penicillin, chúng hoạt động bằng cách phá hủy thành tế bào của vi khuẩn.
Glycopeptides có thể điều trị:
- viêm phổi đa kháng thuốc
- MRSA
- viêm ruột kết
Erythromycin
Erythromycin nằm trong nhóm thuốc kháng sinh được gọi là macrolid, cũng bao gồm azithromycin và clarithromycin được biết đến nhiều hơn. Đây là một loại thuốc kháng sinh ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn và chống lại cả vi khuẩn gram dương và gram âm.
Thông thường, erythromycin được kê đơn cho những người bị dị ứng với penicillin.
Thuốc kháng sinh điều trị các tình trạng như:
- viêm phổi do vi khuẩn
- mắt hồng
- viêm họng hạt
- nhiễm trùng da do tụ cầu
Liệu pháp chất lỏng
Trong một số trường hợp, điều trị có thể bao gồm liệu pháp chất lỏng. Nó giúp bổ sung lượng chất lỏng trong cơ thể và ngăn ngừa mất nước. Nói chung, quản lý chất lỏng là cần thiết để điều trị các tình trạng do chất độc gây ra.
Chống độc
Đối với các bệnh liên quan đến độc tố như bệnh than và ngộ độc thịt, điều trị bằng thuốc kháng độc tố. Thuốc này hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu và loại bỏ độc tố trong cơ thể.
Chất chống độc thích hợp phụ thuộc vào loại độc tố cụ thể. Ngoài ra, nó được sử dụng kết hợp với các phương pháp điều trị khác.
Lấy đi
Xét nghiệm nhuộm Gram có thể giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh. Nếu đó là do vi khuẩn gram dương gây ra, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị thích hợp. Hầu hết các bệnh đều cần dùng thuốc kháng sinh để tiêu diệt hoặc làm chậm vi khuẩn. Trong trường hợp nghiêm trọng, bạn có thể yêu cầu điều trị bổ sung như liệu pháp truyền dịch.