Tổng quat
Ung thư vú hiếm gặp ở độ tuổi 20 hoặc 30, chiếm ít hơn 5% tổng số trường hợp, nhưng đây là loại ung thư phổ biến nhất đối với phụ nữ trong độ tuổi này.
Phụ nữ trẻ hơn bị ung thư vú trải qua những thử thách độc đáo. Đối với phụ nữ dưới 40 tuổi, ung thư vú thường được chẩn đoán ở giai đoạn sau, khi nó có xu hướng bùng phát mạnh hơn. Điều này có nghĩa là tỷ lệ sống thấp hơn và tỷ lệ tái phát cao hơn.
Biết các yếu tố nguy cơ của ung thư vú và các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu có thể giúp bạn bắt đầu điều trị sớm hơn.
Dưới đây là một số thống kê quan trọng nhất cần biết khi nói đến ung thư vú khi còn trẻ.
Mức độ phổ biến của nó như thế nào?
Ung thư vú không phổ biến ở phụ nữ dưới 40 tuổi.
Nguy cơ mắc bệnh ung thư vú của phụ nữ trong độ tuổi 30 chỉ là 1 trên 227 người, hay khoảng 0,4%. Ở độ tuổi 40 đến 50, nguy cơ là 1 trên 68, hoặc khoảng 1,5%. Từ 60 đến 70 tuổi, cơ hội tăng lên 1 trên 28, hoặc 3,6 phần trăm.
Tuy nhiên, trong số tất cả các loại ung thư, ung thư vú là bệnh phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ. Nguy cơ phát triển ung thư vú của một phụ nữ trong suốt cuộc đời của họ là khoảng 12%.
các yếu tố nguy cơ là gì?
Một số phụ nữ có nguy cơ cao bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở độ tuổi 20 hoặc 30. Các yếu tố rủi ro này bao gồm:
- có một thành viên thân thiết trong gia đình (mẹ, chị gái hoặc dì) được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú trước 50 tuổi
- có người thân cùng huyết thống là nam giới bị ung thư vú
- có một BRCA1 hoặc là BRCA2 đột biến gen
- đã được điều trị bức xạ vào ngực hoặc vú trước 30 tuổi
Các yếu tố nguy cơ khác áp dụng cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi bao gồm:
- có tỷ lệ mô vú cao xuất hiện dày đặc trên chụp quang tuyến vú
- đã có một sinh thiết vú bất thường trước đó
- có kỳ kinh nguyệt đầu tiên trước 12 tuổi
- mang thai đủ tháng đầu tiên sau 30 tuổi
- không bao giờ có thai đủ tháng
- không hoạt động thể chất hoặc thừa cân
- thuộc di sản Do Thái Ashkenazi
- uống quá nhiều rượu
Nguyên nhân nào gây ra ung thư vú ở độ tuổi 20 và 30?
Ung thư vú xảy ra khi các tế bào trong vú bắt đầu phát triển và nhân lên bất thường. Những thay đổi trong DNA có thể khiến các tế bào vú bình thường trở nên bất thường.
Lý do chính xác tại sao các tế bào bình thường biến thành ung thư vẫn chưa rõ ràng, nhưng các nhà nghiên cứu biết rằng các hormone, các yếu tố môi trường và di truyền đều có vai trò nhất định.
Khoảng 5 đến 10 phần trăm ung thư vú có liên quan đến đột biến gen di truyền. Nổi tiếng nhất là gen ung thư vú 1 (BRCA1) và ung thư vú gen 2 (BRCA2). Nếu bạn có tiền sử gia đình bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm máu để tìm những đột biến cụ thể này.
Ung thư vú ở độ tuổi 20 và 30 được phát hiện là khác biệt về mặt sinh học trong một số trường hợp so với ung thư ở phụ nữ lớn tuổi. Ví dụ, phụ nữ trẻ có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú âm tính và HER2 dương tính hơn phụ nữ lớn tuổi.
Số liệu thống kê về ung thư vú dưới 40 tuổi
Dưới đây là một số thống kê về ung thư vú ở phụ nữ dưới 40 tuổi:
- Khoảng 12.000 phụ nữ dưới 40 tuổi dự kiến sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm.
- Khoảng 800 phụ nữ dưới 40 tuổi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú di căn mỗi năm.
- Khoảng 30% hoặc hơn các trường hợp chẩn đoán ung thư vú xảy ra trong vài năm sau khi phụ nữ sinh con.
- Phụ nữ dưới 50 tuổi có nhiều khả năng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú âm tính (TNBC). TNBC là bệnh ung thư xét nghiệm âm tính với các thụ thể progesterone và estrogen và quá nhiều protein HER2. TNBC có tỷ lệ sống sót thấp hơn.
- Số ca ung thư vú di căn được chẩn đoán ở phụ nữ từ 25 đến 39 tuổi tăng 2,1% mỗi năm từ năm 1976 đến năm 2009.
- Tỷ lệ sống sót thấp hơn ở phụ nữ dưới 40. Theo một nghiên cứu, phụ nữ từ 40 tuổi trở xuống có nguy cơ tử vong vì ung thư vú cao hơn 30% so với phụ nữ được chẩn đoán trong độ tuổi từ 51 đến 60.
- Gần 1.000 phụ nữ Hoa Kỳ dưới 40 tuổi đã chết vì ung thư vú vào năm 2017.
Số liệu thống kê về ung thư vú di căn
Số phụ nữ dưới 40 tuổi được chẩn đoán mắc ung thư vú di căn ngày càng tăng.
Ung thư vú di căn có nghĩa là ung thư đã phát triển đến giai đoạn 4 và đã di chuyển ra ngoài mô vú vào các khu vực khác của cơ thể, chẳng hạn như xương hoặc não. Tỷ lệ sống sót thấp hơn đối với ung thư đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), tỷ lệ sống sót sau 5 năm của những người bị ung thư vú đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể là 27% đối với phụ nữ ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, một nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống sót trung bình giữa phụ nữ trẻ và lớn tuổi bị ung thư vú di căn.
Một nghiên cứu khác đã xem xét hơn 20.000 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn 4 từ năm 1988 đến năm 2011. Dữ liệu cho thấy tỷ lệ sống sót đã được cải thiện kể từ cuối những năm 80 và đầu những năm 90.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Các bác sĩ thường khó chẩn đoán ung thư vú ở phụ nữ dưới 40 tuổi vì phụ nữ trẻ có vú dày hơn. Một khối u thường không xuất hiện trên phim chụp X quang tuyến vú ở phụ nữ trẻ.
Vì vậy, một dấu hiệu quan trọng của bệnh ung thư vú là sự thay đổi hoặc khối u ở vùng vú. Đa số phụ nữ trẻ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú đều tự phát hiện ra điều bất thường.
Luôn báo cáo bất kỳ thay đổi nào của vú, bao gồm những thay đổi trên da, tiết dịch ở núm vú, đau, căng hoặc một khối u hoặc khối ở vú hoặc vùng dưới cánh tay cho bác sĩ của bạn.
Lấy đi
Ung thư vú không phổ biến ở độ tuổi 20 và 30, nhưng nó vẫn có thể xảy ra. Không nên sàng lọc định kỳ cho nhóm tuổi này, vì vậy việc chẩn đoán có thể khó khăn. Hiểu các số liệu thống kê, cũng như các yếu tố nguy cơ cá nhân của bạn, có thể giúp chẩn đoán và điều trị sớm.